Thị trường ‘Tín dụng xanh’ đang hết sức sôi động
Tín dụng xanh đang trở thành một động lực cạnh tranh mới của các ngân hàng trong và ngoài nước tại Việt Nam. Không chỉ mang lại kênh giải ngân vốn vay, các gói ‘tín dụng xanh’ còn cho thấy trách nhiệm xã hội của các ngân hàng, từ đó làm cho việc thực hiện ESG trở nên chất lượng hơn.
Theo ông Darryl James Dong – Kinh tế trưởng, Tổ chức Tài chính Quốc tế IFC tại Việt Nam đã nêu cụ thể: dựa trên ước tính của IFC, với mục tiêu kép là thu nhập cao và trung hòa carbon, Việt Nam cần đầu tư 6,8% GDP mỗi năm từ nay đến năm 2040. Con số này tương đương 368 tỷ USD, theo giá trị hiện tại, để phát triển, thích ứng và giảm nhẹ. Dự kiến một nửa khoản đầu tư này sẽ do khu vực tư nhân đảm nhận.
Cũng theo ông Võ Quốc Khánh – Phó Tổng giám đốc Công ty EY Việt Nam, nhu cầu cần tín dụng xanh ở Việt Nam rất lớn. Tuy nhiên, tỷ lệ tín dụng xanh trên tổng dư nợ nền kinh tế chưa đạt đến 5%, và các ngân hàng mới chỉ bắt đầu tham gia vào câu chuyện tín dụng xanh trong 5 năm gần đây. So với toàn cầu, tỷ lệ tín dụng xanh so với hệ thống ngân hàng của các ngân hàng liên minh châu Âu đạt gần 8%.
Cụ thể, trong năm 2017 chỉ có 15 tổ chức tín dụng báo cáo về mức tín dụng xanh với quy mô khiêm tốn, nhưng cuối năm 2023 đã có 40 tổ chức tín dụng báo cáo với việc tài trợ cho các dự án xanh, và tốc độ tăng trưởng đạt trên 20%/năm.
Những năm trước, tín dụng xanh thường tập trung tài trợ cho các dự án năng lượng tái tạo hoặc năng lượng xanh.
Trong giai đoạn đầu, các ngân hàng và tổ chức tài chính tại Việt Nam thường ưu tiên các dự án về năng lượng xanh (điện mặt trời/điện gió), bảo vệ môi trường, xử lý rác thải, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên… Hiện tại, các ngân hàng đã mở rộng tệp khách hàng của mình đến từng ngành cụ thể trong từng giai đoạn cụ thể: dệt may, nhựa, nông nghiệp…
Tổng cộng, HSBC, MB, BIDV là những ngân hàng tích cực hoạt động trong lĩnh vực tín dụng xanh nhất. HSBC Việt Nam cam kết hỗ trợ đạt tới 12 tỷ USD cho thị trường Việt Nam và các doanh nghiệp tại Việt Nam đến năm 2030. Tính đến cuối 2023, HSBC đã hỗ trợ đạt 16% trong kế hoạch đã nêu.
Trong năm 2020, giải ngân cho tín dụng xanh của MB đạt 14,5 nghìn tỷ đồng, năm 2023 là 55 nghìn tỷ đồng, chiếm 11% tổng dư nợ MB. Dự kiến đến năm 2026, 15% tổng dư nợ cho vay (khoảng 1,3 triệu tỷ đồng) của MB là tín dụng xanh, tương đương khoảng 200 nghìn tỷ đồng.
So với tỷ lệ tổng dư nợ tín dụng xanh trên tổng dư nợ tín dụng của cả nền kinh tế tại Việt Nam vào cuối năm 2022 là 4,2%, mức độ cấp vốn cho dự án xanh của MB đang lớn hơn gấp đôi.
Lãnh đạo BETRIMEX và UOB Việt Nam đang tiến hành ký hết hợp đồng tài trợ/nhận tín dụng xanh.
Nước vẫn chảy chỗ trũng
Tuy nhiên, khi quan sát thị trường, chúng ta có thể thấy rằng dễ dàng tiếp cập tín dụng xanh vẫn đang rất hạn chế đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam. Nguồn vốn tín dụng xanh của các ngân hàng hiện tại vẫn tập trung vào các doanh nghiệp lớn, bao gồm cả Betrimex, không chỉ những doanh nghiệp nhỏ. Như HSBC, họ đã rót tín dụng xanh vào nhà máy nhựa tái chế Duy Tân, Vingroup hay REE.
Để giải thích thực trạng này, theo ông Phạm Như Ánh – Tổng Giám đốc MB, hiện lãi suất ưu đãi cho tín dụng xanh thấp hơn từ 0,5 – 2% so với mức lãi suất thông thường, tuy nhiên vẫn chưa có nhiều doanh nghiệp được tiếp cận nguồn tín dụng này.
Bởi vì các ngân hàng đang gặp nhiều khó khăn trong quá trình chuyển dịch xanh, ví dụ như việc chưa có khung pháp lý rõ ràng về danh mục phân loại xanh quốc gia để cung cấp vốn cũng như tín dụng xanh.
Ngoài ra, các dự án đầu tư xanh cần thời gian hoàn vốn dài, chi phí đầu tư lớn, rủi ro thị trường cao. Do đó, các tổ chức tín dụng sẽ gặp khó khăn trong việc cân đối nguồn vốn để cho vay. Trong khi đó, chúng ta vẫn thiếu cơ chế, chính sách để hỗ trợ các tổ chức tín dụng tiếp cận nguồn vốn dài hạn, ưu đãi.
Do đó, MB đang tạm lấy tiêu chuẩn ESG là cắt giảm khí phát thải nhà kính từ 20% trở lên. Đồng thời, áp dụng tiêu chuẩn trong các ngành nghề, lĩnh vực hoạt động nhằm đánh giá doanh nghiệp xanh để cấp tín dụng xanh.
Theo Phạm Như Ánh: “Việc tìm đúng dự án tốt để tài trợ vốn phát triển xanh của chúng tôi cũng không dễ dàng. Chúng tôi sẽ căn cứ vào 3 P là: people – con người, planed – kế hoạch kinh doanh đúng và profit – lợi nhuận, để quyết định đầu tư hoặc không. Chúng tôi sẽ xem xét cách DN đối xử với nhân viên – đối tác – khách hàng như thế nào, kế hoạch kinh doanh tác động lên môi trường – con người ra sao, kinh doanh có mang lại lợi ích cho các chủ thể trực tiếp và gián tiếp hay không. DN thực hiện ESG phải theo tiêu chuẩn thế giới. Việc áp dụng tiêu chuẩn khắt khe của quốc tế như Fairtrade đã giúp BETRIMEX đóng góp tích cực hơn cho môi trường và cộng đồng, đảm bảo đời sống, sinh kế của người dân trồng dừa và ổn định vùng nguyên liệu, từ đó thúc đẩy nông nghiệp Việt Nam phát triển bền vững và tạo ra giá trị kinh tế to lớn hơn. BETRIMEX đã biến những người nông dân đơn thuần trở thành nhà quản lý”.
Bà Đặng Huỳnh Ức My – Chủ tịch BETRIMEX
Việt Nam là quốc gia đứng thứ 4 trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương về tổng giá trị xuất khẩu dừa và các sản phẩm từ dừa, với kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 900 triệu USD trong năm 2023 theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan.
Cây dừa đang đóng góp nguồn thu nhập cho khoảng 390.000 hộ nông dân Việt Nam. Bên cạnh giá trị kinh tế trực tiếp, cây dừa còn đóng góp lớn vào việc chống biến đổi khí hậu khi 1 ha dừa mỗi năm có thể lọc được 70-75 tấn CO2.
BETRIMEX là doanh nghiệp hàng đầu trong ngành sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm từ dừa tại Việt Nam, với sản lượng ấn tượng gần 40 triệu lít trong năm 2023. Bên cạnh đó, chỉ có 10% sản lượng của họ bán trong nước, 90% còn lại được tiêu thụ ở 70 quốc gia. Trong những năm tới, BETRIMEX luôn đặt kế hoạch tăng gấp đôi sản lượng sản xuất mỗi năm, chuẩn bị sẵn sàng đối đầu trực tiếp với các đối thủ trên thị trường quốc tế và có thể lên sàn chứng khoán trong năm 2025.
Theo bà Ức My – Chủ tịch BETRIMEX: “Là một người quen thuộc với các nghiệp vụ khách hàng, chúng tôi không gặp quá nhiều khó khăn khi hợp tác với UOB. Khi UOB tiếp cận với BETRIMEX, điều đầu tiên mà họ quan tâm đến là cách chúng tôi quản trị và vận hành kinh doanh, sau đó mới quan tâm đến các chứng chỉ về ESG, tiêu chuẩn chất lượng hay khía cạnh tài chính.
Sở dĩ chúng tôi chọn đồng hành cùng UOB thay vì các ngân hàng trong nước, bởi chúng tôi muốn cho cả thế giới thấy rằng tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm – quản trị – ESG của BETRIMEX đã vươn tầm quốc tế. UOB có thể đồng hành với BETRIMEX trong cả ngắn hạn lẫn dài hạn.
Ngoài ra, vì BETRIMEX đang có những chiến lược phát triển to lớn và dài hơi, chúng tôi sẵn sàng chào đón bất cứ nhà đầu tư hoặc tổ chức tài chính nào đến hợp tác” – bà Ức My khẳng định.
Cũng theo các nhân chứng, doanh nghiệp nông nghiệp Việt cũng sẽ không gặp quá nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm tín dụng xanh, vì quốc gia vẫn đang giữ vững tính chất nông nghiệp và chưa hoàn toàn công nghiệp hóa. Khi các doanh nghiệp nông nghiệp Việt làm việc trong lĩnh vực này và thực hiện đầy đủ hoạt động kinh doanh và tài chính một cách minh bạch và theo tiêu chuẩn quốc tế ESG, khả năng thành công trong việc kêu gọi tài trợ xanh sẽ rất cao.
Theo trải nghiệm của bà Ức My, do lãnh đạo BETRIMEX đã từng sống và học hành nước ngoài, khi nhận được một bộ hồ sơ rất dày bằng tiếng Anh từ UOB, bà không cảm thấy sợ hãi mà vẫn tỉnh táo đọc và tìm những thông tin hữu ích để dịch sang tiếng Việt. Ngược lại, nếu một lãnh đạo doanh nghiệp thiếu kiến thức và tự tin, họ sẽ ngay lập tức lo lắng và mất động lực.
Ông Chung Tấn Cường – Chủ tịch Hiệp hội Nhựa TP.HCM (VSPA) cũng chia sẻ quan điểm tương tự: “Một trong những yếu tố tăng trưởng quan trọng mà chúng tôi đã xác định với các công ty thành viên cho những năm 2024 là thu hút thêm đầu tư xanh nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và có thêm đơn đặt hàng.
Bên cạnh đó, chúng tôi khuyến khích các doanh nghiệp nhựa tập trung vào việc cung cấp đầy đủ và minh bạch dữ liệu để các nhà đầu tư đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó giúp doanh nghiệp tiếp cận nguồn tài chính xanh. Chỉ việc sản xuất các sản phẩm thân thiện với môi trường là chưa đủ, doanh nghiệp nhựa TP.HCM cần cải thiện báo cáo tài chính để thu hút đầu tư”.